Polly po-cket
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  Những đứa con của nửa đêm


Phan_16

Toxy Catrack, với cái đầu ngoại cỡ và cái miệng nhỏ dãi; Toxy, người đứng ở ô cửa sổ có song sắt trên gác thượng, trần truồng, thủ dâm với những động tác của sự ghê tởm bản thân tột độ; người nhổ bọt rất mạnh và thường là qua song sắt, đôi khi trúng đầu bọn tôi... có hai mươi mốt tuổi, một cô gái điên dở ngô ngọng, sản phẩm của nhiều năm giao phối cận huyết; nhưng trong đầu tôi cô rất đẹp, vì cô đã không đánh mất những thiên khiếu mọi đứa trẻ sinh ra đều có nhưng sẽ bị cuộc đời từng bước bào mòn đi. Tôi không nhớ được bất kỳ điều gì Toxy nói khi cô gửi ý nghĩ của mình đến thì thầm với tôi; có lẽ chẳng có gì ngoài tiếng ú ớ và nhổ bọt; nhưng cô đã cho cánh cửa trong trí óc tôi một cú huých khẽ, thế nên khi một biến cố xảy ra trong một cái tủ giặt thì có lẽ chính Toxy đã khiến nó thành có thể.

Tạm thời như thế là đủ rồi, về những ngày đầu đời của Bé Saleem - chưa gì sự hiện diện của tôi đã tác động đến lịch sử; chưa gì Bé Saleem đã thay đổi mọi người xung quanh; và, ở trường hợp cha tôi, tôi cho rằng chính tôi đã đẩy ông vào những sự quá đà đã dẫn đến, có lẽ là tất yếu, giai đoạn hãi hùng của sự đóng băng.

Ahmed Sinai không bao giờ tha thứ cho con trai vì đã làm giập ngón chân ông. Ngay cả khi đã tháo nẹp, ông vẫn hơi tập tễnh. Cha tôi cúi xuống cũi của tôi và nói, “Chà, con trai: con định thế nào là khởi đầu thế ấy. Chưa gì con đã bắt đầu cho bố già tội nghiệp của con ăn đòn rồi!” Theo quan điểm của tôi, câu này chỉ phân nửa là đùa. Bởi vì, với sự ra đời của tôi, tất cả đã thay đổi với Ahmed Sinai. Vị thế của ông trong gia đình bị lung lay khi tôi xuất hiện. Đột nhiên sự ân cần của Amina đã tìm thấy những mục tiêu khác; bà không bao giờ phỉnh tiền của ông nữa, và tấm khăn trên lòng ông ở bàn ăn sáng đôi khi lại nhói lên nỗi buồn hoài niệm về những ngày tháng cũ. Bây giờ là “Con mình cần cái này cái nọ,” hay “Janum, mình phải đưa tôi tiền cho cái nọ cái kia.” Quá tệ, Ahmed Sinai nghĩ. Cha tôi luôn tự cho mình là quan trọng.

Và thế là chính thành tích của tôi đã khiến cho Ahmed Sinai, trong những ngày đầu tôi ra đời, rơi vào hai ảo tưởng sinh đôi mà rồi sẽ trở thành sự sụp đổ của ông, vào thế giới không có thực của yêu tinh và vùng đất trong lòng biển.

Một hồi ức về cha tôi trong một tối mùa lạnh, ngồi trên giường tôi (dạo ấy tôi lên bảy) mà kể cho tôi, với chất giọng hơi quánh lại, chuyện người đánh cá tìm thấy yêu tinh trong một cái chai bị dạt lên bãi biển... “Đừng bao giờ tin lời hứa của yêu tinh, con trai! Thả chúng ra là chúng sẽ nuốt tươi con!” Và tôi, rụt rè - vì tôi có thể ngửi thấy mùi hiểm nguy trong hơi thở cha tôi: “Nhưng, Abba, yêu tinh sống được trong chai thật à?” Và thế là cha tôi, trong một cơn thay đổi tâm trạng chóng mặt, cười rầm lên và rời khỏi phòng, trở lại với một cái chai màu xanh sẫm có nhãn trắng. “Nào,” ông trầm giọng hỏi, “con có muốn xem yêu tinh trong này không?” “Không!” tôi sợ hãi ré lên; nhưng “Có!” con Khỉ Đồng em tôi reo to từ giường bên cạnh… và co rúm lại trong nỗi khiếp sợ háo hức, chúng tôi xem ông vặn nút rồi lấy bàn tay bịt cổ chai lại đầy vẻ kịch tính; và giờ, trên tay kia, một chiếc bật lửa xuất hiện. “Thế là tiêu đời lũ yêu tinh gian ác!” cha tôi kêu lên; rồi, nhấc tay ra, gí ngọn lửa vào cổ chai. Kinh hãi, con Khỉ và tôi quan sát một ngọn lửa ma quái, lam-lục-vàng, chầm chậm di chuyền xuống theo vòng tròn ở mặt trong chai; tới khi, xuống đến đáy, nó bùng lên giây lát rồi tắt ngấm. Hôm sau tôi khơi mào hàng tràng cười khi bảo Sonny, Mắt Chẻ và Tóc Dầu, “Bố tao chiến đấu với yêu tinh; ông đánh bại chúng; thật đấy!...” Và có thế thật. Không bao lâu sau khi tôi ra đời, Ahmed Sinai, bị tước bỏ những sự phỉnh nịnh và quan tâm, bắt đầu cuộc đấu tranh trọn đời với những chai đựng yêu tinh. Nhưng tôi đã nhầm một điều: ông không thắng.

Tủ cocktail đã kích thích khẩu vị ông; nhưng sự xuất hiện của tôi mới là điều đẩy ông đến với nó... Hồi ấy, Bombay mới được tuyên bố là bang cấm rượu. Cách duy nhất kiếm rượu là lấy được chứng nhận nghiện rượu; và thế là một giống bác sĩ mới sinh sôi, bác sĩ-tửu tinh, một trong số này, Bác sĩ Sharabi, được giới thiệu với cha tôi qua ông Homi Catrack hàng xóm. Sau đó, cứ vào ngày đầu tháng cha tôi và Ngài Catrack và nhiều nhân vật khả kính nhất của thành phố lại xếp hàng ngoài cánh cửa kính sần tại phòng mổ của Bác sĩ Sharabi, đi vào, rồi quay ra với những tờ tem phiếu rượu màu hồng be bé. Nhưng khẩu phần cho phép quá ít so với nhu cầu của cha tôi; thế là ông bắt đầu sai cả người hầu đi; và thợ làm vườn, người bưng bê, tài xế (giờ chúng tôi đã có ô tô, một chiếc 1946 Rover có gờ lên xuống, giống của William Methwold), thậm chí cả lão Musa và Mary Pereira, đem về cho cha tôi càng lúc càng nhiều tem hồng, ông mang tem hồng tới Bách hóa Vijay đối diện hiệu thợ cạo cắt bao quy đầu ở Đường Gowalia Tank để đổi lấy những túi giấy nâu đựng rượu, bên trong là những chai màu xanh kêu lanh canh, chứa đầy tửu tinh. Và cả whisky nữa: Ahmed Sinai xóa nhòa đường nét của bản thân bằng cách uống những chai xanh và nhãn đỏ của người hầu. Người nghèo, chẳng có gì khác để kiếm tiền, bán danh tính họ trên những mẩu giấy hồng; còn cha tôi biến chúng thành chất lỏng và nốc cạn.

Vào sáu giờ mỗi tối, Ahmed Sinai bước vào thế giới của tửu tinh; và mỗi sáng, mắt đỏ ngầu, đẫu nhức nhối vì kiệt lực sau trận chiến suốt đêm, ông không cạo râu ngồi vào bàn ăn sáng; và theo dòng chảy của năm tháng, tâm trạng phấn khởi trước khi cạo râu của ông bị thay thế bởi sự kiệt quệ cáu bẳn của cuộc chiến giữa ông với những linh thần trong chai.

Sau khi ăn sáng, ông xuống nhà. Ông dành riêng hai phòng ở tầng trệt để làm văn phòng, vì khả năng định hướng của ông vẫn kém như thường lệ, và ông không thích thú gì cái ý tưởng bị lạc giữa Bombay trên đường đi làm; nhớ đường đi xuống một lượt cầu thang thì cả ông cũng làm được. Đường nét nhạt nhòa, cha tôi thực hiện những giao dịch bất động sản; và cơn giận tăng dần của ông trước việc mẹ tôi chuyên chú vào đứa con tìm được một lối xả mới sau cánh cửa văn phòng - Ahmed Sinai bắt đầu ve vãn các cô thư ký. Sau nhiều đêm mà trận cãi vã với những chai rượu đôi khi bùng phát với những lời lẽ cay nghiệt - “Vợ với chả con! Thế này thì tôi mua quách một thằng con rồi thuê một mụ vú nuôi - có khác gì đâu?” Và rồi nước mắt, và Amina, “Ôi, ja-num - đừng dằn vặt em!”, và thế là khơi lên, “Dằn vặt cái chân tôi! Cô nghĩ chồng đòi hỏi vợ quan tâm là dằn vặt à? Chúa cứu con khỏi lũ đàn bà ngu độn!” - cha tôi tập tễnh xuống cầu thang để lồi mắt ra nhìn các cô gái Colaba. Và sau một thời gian Amina bắt đầu để ý thấy thư ký của ông không ai ở được lâu, họ đột ngột bỏ đi, hầm hầm lao ra khỏi cửa nhà tôi không hề báo trước; và quý vị phải tự đánh giá đấy là bà giả mù, hay bà chấp nhận điều đó như một sự trừng phạt, nhưng tóm lại bà không có phản ứng gì, tiếp tục dồn hết thời gian cho tôi; hành động duy nhất của bà để ghi nhận sự việc là đặt cho các cô gái một cái tên chung. “Mấy ả lai Anh ấy,” bà bảo Mary, để lộ một chút hợm hĩnh, “tên thì kỳ cục, Fernand với Alonso này kia, họ thì, trời ạ! Sulaca với Colaco cái gì không biết. Việc gì ta phải bận tâm về các ả? Loại đàn bà rẻ tiền. Ta gọi tất là đám gái Coca-Cola của ông ta - tên mấy ả nghe đều rưa rứa cả.”

Trong khi Ahmed véo: những cặp mông, Amina trở nên cam chịu; nhưng có lẽ nếu bà tỏ ra quan tâm thì ông hẳn đã thấy vui.

Mary Pereira nói, “Những cái tên đấy không hề kỳ cục, thưa Bà; nói Bà bỏ quá, nhưng đấy là những từ Thiên Chúa tốt đẹp.” Amina liền nhớ lại vụ cô em họ Zohra của Ahmed đem da đen ra làm trò cười - và, cuống lên để xin lỗi, bà phạm vào sai lầm của Zohra: “Ôi, không phải nói em đâu, Mary, sao em có thể nghĩ rằng chị đang giễu em?”

Đầu sừng, mũi dưa chuột, tôi nằm trong cũi lắng nghe; và mọi chuyện xảy ra, đều vì tôi mà xảy ra... Một ngày tháng Một năm 1948, lúc năm giờ chiều, cha tôi được Bác sĩ Narlikar đến thăm. Những cái ôm hôn như thường lệ, rồi những cái vỗ lưng. “Làm tí cờ nhé?” bố tôi hỏi, theo nghi thức, vì các cuộc viếng thăm này đang trở thành thông lệ. Họ sẽ chơi cờ theo lối Ấn Độ xưa, trò chơi shatranj, và, được giải phóng khỏi những phức tạp trong cuộc sống bởi sự giản đơn của bàn cờ, Ahmed sẽ mơ tưởng trong một giờ đồng hồ về chuyện sắp xếp lại kinh Quran; thế rồi đến sáu giờ, giờ cocktail, giờ của tửu tinh... song tối nay Narlikar nói, “Không.” Và Ahmed, “Không? Không là sao? Nào, ngồi, chơi, buôn chuyện...” Narlikar ngắt lời: “Tối nay, người anh em Sinai ạ, có thứ này tôi phải cho anh xem.” Giờ họ đang ngồi trên chiếc 1946 Rover, Narlikar quay cần khởi động rồi nhảy lên; và họ đang chạy về phía Bắc theo đường Warden, qua đền Mahalaxmi bên trái và sân golf Willingdon Club bên phải, bỏ trường đua ngựa lại sau, lăn bánh dọc Hornby Vellard cạnh con đê biển; sân vận động Vallabhbhai Patel đã nằm trong tầm mắt, với những hình nộm đô vật khổng lồ bằng bìa, Bano Devi Người đàn bà Bất khả Chiến bại và Dara Singh, dũng sĩ đệ nhất... những người bán channa và dắt chó đi dạo tản bộ bên bờ biển. “Dừng lại,” Narlikar ra lệnh, và họ xuống xe. Họ đứng nhìn ra biển; gió biển thổi mát mặt họ; ngoài xa, ở cuối con đường hẹp lát xi măng giữa những con sóng, là hòn đảo đặt lăng tẩm của vị thánh Haji Ali. Khách hành hương đang sải bước giữa Vellard và lăng mộ.

“Đó,” Narlikar chỉ, “Anh thấy gì?” Và Ahmed, hoang mang, “Chả thấy gì sất. Lăng. Người. Thế này là sao, ông bạn già?” Và Narlikar, “Không phải cái đấy. Kia kìa!” Và giờ Ahmed thấy ngón tay đang chỉ của Narlikar trỏ vào lối đi lát xi măng... “Con đường bờ biển ?” ông hỏi, “Cái đó thì sao? Vài phút nữa thủy triều sẽ lên và phủ kín nó; ai chả biết...” Narlikar, làn da tỏa sáng như một ngọn hải đăng, trở nên triết lý. “Chính thế, người anh em Ahmed; chính thế. Đất và biển; biển và đất; cuộc tranh đấu muôn đời, phải không?” Ahmed, không hiểu gì, im lặng. “Một thời nơi đây từng có bảy hòn đảo,” Narlikar nhắc ông, “Worli, Mahim, Salsette, Matunga, Colaba, Mazagaon, Bombay. Người Anh hợp chúng lại. Biển, người anh em Ahmed, trở thành đất. Đất nổi lên, và không chìm xuống dưới thủy triều!” Ahmed thấy thèm whisky; môi ông bắt đầu trề ra trong khi khách hành hương rảo bước trên con đường hẹp. “Ý tưởng,” ông chất vấn. Và Narlikar, rực rỡ ánh quang huy: “Ý tưởng, Ahmed bhai, là đây!”

Nó chui ra từ túi ông: một mô hình thạch cao nhỏ cao hai tấc: cái tetrapod! Như một cái logo ba chiều của Mercedes-Benz, ba chân đứng trên tay ông, chân thứ tư vươn lên theo kiểu linga giữa trời đêm, nó làm cha tôi chết lặng. “Cái gì thế?” ông hỏi; và Narlikar liền bảo ông: “Đây là cục cưng sẽ làm chúng ta giàu hơn cả Hyderabad, bhai! Món đồ chơi nhỏ bé sẽ biến anh, anh và tôi, thành chủ nhân của nó! Ông chỉ về nơi biển đang ào đến trên lối đi lát xi măng không người... Vùng đất dưới mặt biển, bạn ơi! Chúng ta phải sản xuất thứ này hàng nghìn chiếc - hàng chục nghìn! Chúng ta phải bỏ thầu những hợp đồng lấn biển: cả một gia tài đang đợi; đừng bỏ lỡ, người anh em, đây là cơ hội cả đời người đấy!”

Vì sao cha tôi bằng lòng mơ giấc mơ kinh doanh của một bác sĩ phụ khoa? Vì sao, từng chút một, viễn cảnh về những khối tetrapod bê tông kích thước thật hành quân trên con đường ven biển, những kẻ chinh phục bốn chân giành chiến thắng trước biển cả, lại hớp hồn ông hoàn toàn như với vị bác sĩ phát sáng? Vì sao, những năm sau này Ahmed lại dâng hiến bản thân cho cái ảo tưởng của mọi cư dân vùng đảo - cái huyền thoại chinh phục những con sóng? Có thể vì ông sợ bỏ lỡ một ngã rẽ nữa; có thể vì tình bằng hữu của những ván shatranj; hoặc có lẽ vì sự đáng tin cậy của Narlikar - “Vốn của anh và quan hệ của tôi, Ahmed bhai, còn có khó khăn gì được? Mọi nhân vật tiếng tăm ở thành phố này đều có một đứa con trai do tay tôi đón ra đời; sẽ không cửa nào đóng. Anh sản xuất; tôi sẽ kiếm hợp đồng! Năm mươi - năm mươi; ăn đồng chia đủ!” Nhưng, theo quan điểm của tôi, có một cách giải thích đơn giản hơn. Cha tôi, bị tước đoạt sự quan tâm của vợ, bị thay thế bởi con trai, bị nhòa đi vì whisky và tửu tinh, đang cố gắng khôi phục vị thế của mình trong thế giới này; và giấc mơ tetrapod cho ông cơ hội ấy. Toàn tâm toàn ý, ông lao vào trò dại dột đồ sộ ấy; thư được viết; cửa được gõ, tiền hối lộ được trao tay; tất cả góp phần biến Ahmed Sinai thành một cái tên quen thuộc ở những hành lang của Sachivalaya - trên các lối đi của Văn phòng Bang người ta đánh hơi thấy một tay người Hồi đang vãi tiền như nước. Và Ahmed Sinai, uống đến ngủ mê mệt, không hay biết về mối hiểm nguy ông đang dấn thân vào.

Cuộc sống của chúng tôi, ở giai đoạn này, được định hình bằng thư tín. Thủ tướng viết cho tôi khi tôi mới bảy ngày tuổi - trước khi biết tự chùi mũi tôi đã nhận được thư hâm mộ từ độc giả của Thời báo Ấn Độ; và một sáng tháng Một, cả Ahmed Sinai cũng nhận được một bức thư mà ông sẽ chẳng bao giờ quên được.

Đôi mắt đỏ ngầu ở bữa sáng được tiếp nối bằng cái cằm cạo nhẵn của ngày làm việc; tiếng chân xuống tầng; tiếng giật mình khúc khích của cô gái Coca-Cola. Tiếng cót két của cái ghế bị kéo lại gần chiếc bàn phủ vải giả da màu lục. Tiếng kim khí của lưỡi dao rọc bằng kim loại được nhấc lên, va chạm vào máy điện thoại trong giây lát. Tiếng xoẹt ngắn của kim loại xén vào lớp phong bì; và một phút sau, Ahmed chạy ngược lên cầu thang, la gọi mẹ tôi, hét lớn:

“Amina! Lại đây, mình! Bọn con hoang nhét hai hòn của tôi vào xô đá rồi!”

Những ngày sau khi Ahmed nhận được thư chính thức thông báo việc đóng băng toàn bộ tài sản của ông, cả thế giới nhất tề lên tiếng... “Ơ kìa, janum, mình ăn nói thế à!” Amina đang nói - và có phải tôi tưởng tượng ra, hay một đứa bé vừa đỏ mặt trong cái cũi màu thiên thanh?

Và Narlikar, xuất hiện trong cơn hốt hoảng dầm dề, “Lỗi tại tôi mọi đàng; bọn ta đã quá phô trương. Bây giờ đang buổi rối ren, Sinai bhai - đóng băng tài sản của một gã người Hồi, họ bảo, rồi ép gã chạy sang Pakistan, bỏ lại tất cả của cải. Tóm đuôi thằn lằn rồi thì nó sẽ tự đứt đuôi! Cái gọi là chính quyền thế tục này có những ý tưởng ranh mãnh thật.”

“Tất cả,” Ahmed Sinai nói, “tài khoản ngân hàng, trái phiếu tiết kiệm; tiền thuê nhà từ bất động sản ở Kurla - phong tỏa, đóng băng hết. Theo lệnh, thư viết. Theo lệnh chúng sẽ không để cho tôi có lấy bốn anna, mình ạ - không có lấy một chavanni để xem hộp vạn hoa!”

“Tại mấy bức hình đăng báo,” Amina quả quyết. “Không thì làm sao quân khốn nạn ma lanh tinh tướng ấy biết ai mà khởi tố? Trời ơi, janum, lỗi tại em...”

“Không có lấy mười xu để mua một xiên channa,” Ahmed Sinai thêm, “không có lấy một anna để bố thí cho ăn mày. Đóng băng - như trong tủ lạnh!”

“Lỗi tại tôi,” Ismail Ibrahim nói, “Lẽ ra tôi phải cảnh báo anh, Sinai bhai, tôi đã nghe nói tới mấy vụ đóng băng này - chỉ những người Hồi giàu có mới bị chọn, tất nhiên rồi. Anh phải chiến đấu...”

“…máu lửa vào!” Homi Catrack hối thúc, “Như một con mãnh sư! Như Aurangzeb - tổ tiên của anh, phải không nhỉ? - như Quận chúa xứ Jhansi! Để xem chúng ta rơi vào cái đất nước kiểu gì!”

“Ở đất nước này hãy còn tòa án đấy,” Ismail Ibrahim thêm; Nussie-vịt-bầu cười một nụ cười đần đụt trong khi cho Sonny bú; ngón tay cô ta chuyển động, vô thức vuốt ve hai hốc lõm của nó, đi lên đi xuống, quay qua quay lại, theo một nhịp điệu đều đặn, bất biến... “Anh phải tiếp nhận sự hỗ trợ pháp lý của tôi,” Ismail bảo Ahmed. “Hoàn toàn miễn phí. Không, không, đừng nhắc đến chuyện đấy. Có nhẽ đâu thế? Mình là hàng xóm cơ mà.”

“Phá sản,” Ahmed nói, “Đóng băng, như nước ấy.”

“Mình lại đây,” Amina ngắt lời ông; sự dâng hiến trỗi dậy ở tầm cao mới, bà dẫn ông về phòng... “Janum, mình cần nằm xuống một lát.” Và Ahmed: “Thế này là sao, mình? Giữa lúc như thế này – trắng tay; mạt vận; nát vụn như đá - vậy mà mình lại nghĩ đến...” Nhưng bà đã đóng cửa; dép đã được đá tung ra, cánh tay bà vươn về phía ông; và không bao lâu sau bàn tay bà lần xuống xuống xuống; và rồi, “Ôi trời ơi, janum, em tưởng mình chỉ nói bậy nhưng đúng thật! Lạnh quá, Allah, lạnh quáááá, như hai cục đá tròn ấy!”

Những chuyện như vậy vẫn xảy ra; sau khi Chính quyền đóng băng tài sản của cha tôi, mẹ tôi bắt đầu thấy chúng càng lúc càng lạnh hơn. Vào ngày đầu tiên, con Khỉ Đồng được thụ thai - vừa kịp lúc, vì sau đó, mặc dù Amina nằm bên chồng hằng đêm để sưởi ấm cho ông, mặc dù bà cuộn mình ôm chặt ông khi thấy ông run bần bật lúc những ngón tay băng giá của thịnh nộ và bất lực từ dương căn của ông vươn lên, bà không chịu nổi việc sờ tay vào đó nữa bởi hai hòn đả nhỏ của ông đã trở nên buốt lạnh tới mức không thể cầm được.

Họ - chúng tôi - đáng lẽ phải đoán được chuyện tồi tệ sẽ xảy ra. Tháng Một năm đó, Bãi biển Chowpatty, cả Juhu và Trombay nữa, ngổn ngang xác cá chim báo điềm gở, những cái xác trôi, không bóng dáng một lời giải thích, ngửa bụng, như những ngón tay đầy vảy dạt vào bờ.

Chương 10: Rắn và Thang

Và những điềm gở khác: có người thấy sao chổi nổ tung trên Vịnh Back; báo đưa tin có người thấy hoa chảy máu; rồi vào tháng Hai lũ rắn trốn thoát khỏi Viện Schaapsteker. Người ta đồn rằng một gã dụ rắn người Bengal bị điên, một tay Tubriwallah, đang lang thang khắp nước, dụ lũ bò sát ra khỏi tình trạng giam cầm, dẫn chúng thoát khỏi các trại rắn (như Viện Schaapsteker, nơi người ta nghiên cứu chức năng y học của nọc rắn và điều chế huyết thanh kháng độc) bằng ma thuật Pied Piper[1] từ cây sáo, để báo thù việc chia cắt xứ Bengal Trù phú thân yêu của gã. Được một thời gian, tin đồn bổ sung rằng gã Tubriwallah ấy cao ngoài hai thước, da xanh lơ. Gã là thần Krishna giáng hạ để trừng phạt con dân của người; gã là đức Jesus màu thiên thanh của các nhà truyền giáo.

[1] Tên một nhân vật truyền kỳ ở Đức, người dùng tiếng sáo để dụ đàn chuột khỏi thi trấn Hamelin. Sau khi không được trả công như cam kết, anh ta dùng chính tiếng sáo này để dụ trẻ con trong thị trấn bỏ đi.

Hình như, dưới tác động của sự ra đời bị đánh tráo của tôi, trong khi tôi to lên với tốc độ chóng mặt, mọi thứ có thể sinh chuyện bắt đầu sinh chuyện. Trong mùa đông của loài rắn đầu năm 1948, trong mùa nóng và mùa mưa tiếp nối, sự kiện chất chồng sự kiện, cho nên đến khi con Khỉ Đồng ra đời vào tháng Chín chúng tôi đều kiệt sức, và sẵn sàng để nghỉ ngơi vài năm.

Lũ hổ mang trốn thoát biến mất vào hệ thống cống rãnh của thành phố; cạp nong xuất hiện trên xe buýt. Các lãnh tụ tôn giáo mô tả việc đàn rắn trốn thoát như một lời cảnh báo - rắn thần Naga đã được phóng thích, họ ngân nga, để trừng phạt việc đất nước này công khai từ bỏ những thần linh của nó. (“Chúng ta là một Quốc gia thế tục,” Nehru tuyên bố, và cả Morarji lẫn Patel lẫn Menon đều tán thành; song Ahmed Sinai vẫn run bần bật dưới tác động của vụ đóng băng.) Và một ngày, khi Mary bắt đầu hỏi, “Giờ ta sẽ sống ra sao, thưa Bà?” Homi Catrack giới thiệu chúng tôi với chính Bác sĩ Schaapsteker. Ông ta tám mốt tuổi; lưỡi thò ra thụt vào liên hồi giữa cặp môi mỏng dính; và sẵn sàng trả tiền mặt thuê một căn hộ tầng trên cùng nhìn ra biển Ả Rập. Ahmed Sinai, trong những ngày ấy, đã nằm liệt giường; cái lạnh buốt giá của vụ đóng băng thấm đẫm giường chiếu ông; ông nốc từng lượng lớn whisky cho mục đích điều trị nhưng nó không thể làm ông ấm lên... thế nên chính Amina đã đồng ý cho ông bác-sĩ-rắn già thuê tầng trên cùng Biệt thự Buckingham. Vào cuối tháng Hai, nọc rắn bước vào cuộc đời chúng tôi.

Bác sĩ Schaapsteker là một người khơi dậy những câu chuyện hoang đường. Những người giúp việc mê tín hơn ở Viện nghiên cứu của ông thề rằng ông có khả năng hằng đêm mơ thấy bị rắn cắn, và nhờ vậy luôn miễn nhiễm trước những cú cắn của chúng. Mấy người khác rỉ tai nhau rằng ông chính là nửa người nửa rắn, kết quả của một cuộc hôn phối phi tự nhiên giữa một người đàn bà và một con rắn hổ mang. Nỗi ám ảnh của ông với nọc độc của rắn cạp nong - bungarus fasciatus - đã sớm thành huyền thoại. Nhân loại chưa biết tới loại huyết thanh kháng độc nào cho cú cắn của rắn bungarus: nhưng Schaapsteker đã dành trọn đời đi tìm nó. Mua những con ngựa suy nhược từ tàu ngựa Catrack (và những tàu khác), ông tiêm vào chúng từng liều nhỏ nọc độc; nhưng lũ ngựa, chẳng giúp ích gì, không hình thành được kháng thể, sùi bọt mép, chết đứng và buộc phải đem nấu thành cao. Người ta bảo rằng Bác sĩ Schaapsteker – “Sharpsticker[2] sahib” – giờ đây đã có năng lực hạ sát lũ ngựa chỉ đơn giản bằng cách lại gần chúng với một ống tiêm dưới da... nhưng Amina không để tâm đến mấy chuyện tầm phào ấy. “Đấy là một ông già lịch lãm,” bà bảo Mary Pereira; “Việc gì phải bận tâm đến những kẻ đơm đặt về ông ấy? Ông ấy trả tiền nhà, và cho phép nhà ta sống.” Amina biết ơn ông bác-sĩ-rắn người Âu, đặc biệt là khi vào những ngày tháng tài sản bị đóng băng, khi Ahmed dương như không có dũng khí để chiến đấu.

[2] Tên Schaapsteker (tiếng Đức) phát âm khá giống với Sharp-stick-er, hiểu nôm na là người có cây gậy nhọn, ám chỉ việc Bác sĩ Schaapsteker dùng kim tiêm để tiêm nọc rắn vào lũ ngựa.

“Cha mẹ kính yêu,” Amina viết, “Thề có quỷ thần hai vai, con không hiểu vì sao những chuyện này lại đổ xuống đầu chúng con... Ahmed là một người đàn ông tốt, nhưng tai biến này đã đánh quỵ anh ấy. Nếu cha mẹ có lời khuyên cho con gái mình, thì con trẻ đang rất cần đến nó.” Ba ngày sau khi nhận bức thư này, Aadam Aziz và Mẹ Bề trên tới Nhà ga Trung tâm Bombay trên chuyến tàu Frontier Mail; và Amina, lái xe đưa họ về trên chiếc 1946 Rover của nhà tôi, nhìn qua cửa sổ thấy Trường đua Mahalaxmi; và nảy ra mầm mống đầu tiên cho ý tưởng táo tợn của bà.

“Thứ trang trí tân thời này với bọn trẻ như anh chị thì được, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề trên nói. “Nhưng cho tôi một cái tràng kỷ kiểu cũ để tôi ngồi. Cái thứ ghế này mềm quá thể, cáigìkhôngbiết, làm tôi thấy như sắp ngã.”

“Nó ốm à?” Aadam Aziz hỏi. “Bố khám và kê đơn cho nó nhé ?”

“Giờ không phải lúc núp trên giường,” Mẹ Bề trên tuyên bố, “Giờ nó phải là một thằng đàn ông, cáigìkhôngbiết, và làm nhiệm vụ của đàn ông.”

“Khí sắc bố mẹ tốt quá,” Amina thốt lên, thầm nghĩ bố bà đang trở thành một ông lão hình như mỗi năm qua đi lại một thấp hơn; trong khi Mẹ Bề trên đã rộng ra đến mức những cái ghế bành, dẫu mềm, cũng phải rên lên dưới sức nặng của bà... và đôi khi, trong một ảo ảnh của ánh sáng, Amina ngỡ như mình thấy, ở chính giữa người cha bà, một quầng tối giống như một cái lỗ.

“Còn gì ở cái đất Ấn Độ này?” Mẹ Bề trên nói, vung tay chém gió. “Thôi, bỏ hết đi, sang Pakistan mà sống. Nhìn thằng Zulfìkar xem nó ăn nên làm ra thế nào - nó sẽ giúp mày khởi nghiệp. Hãy làm một thằng đàn ông, con ạ - đứng dậy và bắt đầu lại!”

“Anh ấy không muốn nói gì lúc này,” Amina nói, “anh ấy cần nghỉ ngơi.”

“Nghỉ ngơi?” Aadam Aziz gầm lên. “Nó đúng là ngữ èo uột!”

“Cả Alia, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề trên nói, “một thân một mình, sang Pakistan - cả nó cũng đang có cuộc sống đàng hoàng, dạy học ở một trường tử tế. Họ bảo nó sẽ thành hiệu trưởng sớm thôi.”

“Suỵt, mẹ, anh ấy muốn ngủ... ta sang phòng bên đã...”

“Có lúc để ngủ, cáigìkhôngbiết, và cũng có lúc phải thức! Nghe này: Mustapha đang kiếm được hàng mấy trăm đồng một tháng, cáigìkhôngbiết, trong Ngạch Công chức. Chồng mày là gì? Oách quá không cần làm việc à?”

“Mẹ, anh ấy đang buồn bực. Thân nhiệt anh ấy thấp lắm…”

“Mày cho nó ăn những gì? Kể từ hôm nay, cáigìkhôngbiết tao sẽ quản chuyện bếp núc nhà mày. Thanh niên bây giờ như con nít ấy, cáigìkhôngbiết!”

“Xin theo ý mẹ.”


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26
Phan_27
Phan_28
Phan_29
Phan_30
Phan_31
Phan_32
Phan_33
Phan_34
Phan_35
Phan_36
Phan_37
Phan_38
Phan_39
Phan_40
Phan_41
Phan_42
Phan_43
Phan_44
Phan_45
Phan_46
Phan_47
Phan_48
Phan_49
Phan_50
Phan_51
Phan_52
Phan_53 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .